oC
menu_open
Lễ hội tỉnh Thừa Thiên Huế
01/02/2023 5:24:31 CH
Xem cỡ chữ:
Đọc bài viết:
Không náo nhiệt, ồn ào như nhiều lễ hội ở khắp nơi trên đất nước, Huế vẫn giữ riêng cho mình những lễ hội dân gian truyền thống thu hút đông đảo du khách về tham dự. Ở Huế, nơi mà nét đẹp của những lễ hội dân gian từ xa xưa vẫn được gìn giữ và phát huy theo đúng tinh thần của thời điểm hiện đại, người ta có thể tìm được những điều thú vị của tín ngưỡng, tôn giáo, tâm linh, văn hóa dân gian tồn tại hàng trăm năm qua.

Di sản văn hóa phi vật thể tồn tại vừa đa dạng, linh hoạt và luôn biến đổi. Nó nằm trong con người và chỉ được nhận diện khi được con người thể hiện nó ra bên ngoài bằng hoạt động, tạo ra sản phẩm cụ thể. Hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể không thể là hoạt động làm đóng băng di sản hay coi di sản văn hóa phi vật thể chỉ là di sản mà quên mất rằng di sản đó luôn sống trong đời sống đương đại, luôn đồng hành với cuộc sống của con người hiện tại, nó luôn biến đổi, luôn được tái tạo/ sáng tạo và cũng bị loại trừ khi không còn phù hợp với đời sống hoặc mất đi cùng với sự mất đi của người nắm giữ. Ở góc độ này, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể là bảo vệ con người, tạo ra các điều kiện để con người có điều kiện tốt, phù hợp nhất để thực hành di sản văn hóa phi vật thể đang nắm giữ. Điều kiện đó là điều kiện về sức khỏe, tinh thần, điều kiện sống, môi trường, không gian thực hành, sáng tạo và truyền dạy,...

- Lễ hội

Cho đến nay, có nhiều cách gọi và sự giải thích khác nhau về thuật ngữ lễ - hội. Có người gọi lễ hội là “hội lễ”, có người lại gọi là “hội hè” hay “hội hè đình đám”, có người lại gọi là lễ, lễ tết,...

Ở nước ta, khái niệm Lễ hội mới chỉ xuất hiện cách đây không lâu. Trước đây chỉ có khái niệm lễ hoặc hội. Cả hai khái niệm này đều là từ gốc Hán được dùng để gọi một nhóm loại hình phong tục, chẳng hạn như: Lễ Thành Hoàng, lễ gia tiên…, cũng như vậy trong hội cũng có nhiều hội khác nhau như: Hội Gióng, Hội Lim, Hội chọi trâu,….

Như vậy, lễ hội là tập hợp của 2 từ ghép: Lễ và Hội; trong đó:

- Lễ: Theo từ điển tiếng Việt, lễ là “những nghi thức tiến hành nhằm đánh dấu hoặc kỷ niệm một sự việc, sự kiện có ý nghĩa nào đó. Trong thực tế, lễ có nhiều ý nghĩa và có một lịch sử hình thành khá phức tạp. Lễ là một hệ thống nghi thức, một hệ thống hành vi, động tác, sự kiện có định ước, quy cách chặt chẽ và ổn định để đánh dấu hay kỷ niệm một sự việc, sự kiện nào đó. Lễ nhằm biểu hiện sự tôn kính của con người, của dân làng đối với thần linh, các lực lượng siêu nhiên trở thành thần thánh thiêng liêng. Trong thế giới tâm linh của con người, thần linh là nơi con người gửi gắm niềm ước vọng của mình nên dân chúng rất coi trọng việc thờ cúng các bậc thần thánh. Để thể hiện điều đó, họ nghĩ ra một hệ thống những nghi lễ, nghi thức để hành lễ. Nơi để thờ cúng tiến hành nghi lễ là chùa, miếu, đền, tháp, đình,... nên mới có các lễ chùa, lễ đền, lễ phủ,... Lễ ở trong hội không đơn lẻ mà là một hệ thống liên kết có trật tự và cùng hỗ trợ nhau và có tính ổn định cao.

- Hội: “Hội là cuộc vui tổ chức chung cho đông đảo mọi người dự, theo phong tục hoặc nhân dịp đặc biệt. Hội là đám vui đông người, trong một địa điểm và vui chơi với nhau, nhưng phải mang những yếu tố như:

+ Được tổ chức nhân dịp kỷ niệm một sự kiện quan trọng nào đó và có liên quan đến cộng đồng dân cư.

+ Nhằm đem lại lợi ích tinh thần cho mọi thành viên của cộng đồng, mang tính cộng đồng cả tư cách tổ chức lẫn mục đích của nó; có khi tính công cộng đó được mở rộng đến quy mô làng, liên làng, liên vùng,…

+ Có nhiều trò vui đến mức như hỗn độn, đến vô số, tả tơi (vui xem hát, nhạt xem bơi, tả tơi xem hội). Đây là sự cộng cảm cần thiết của phương diện tâm lý sau những ngày tháng lao động vất vả với những dồn nén cần được giải toả và thăng bằng trở lại.

Nếu lễ là một hệ thống tĩnh có tính quy phạm nghiêm ngặt được cử hành tại chốn thâm nghiêm, linh thiêng, thì hội là một sinh hoạt dân dã phóng khoáng diễn ra trên bãi sân để dân làng cùng bình đẳng vui chơi với hàng loạt trò tục hấp dẫn do con người chủ động tham gia. Hội không bị ràng buộc bởi lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo, đẳng cấp và tuổi tác. Sau những tháng ngày lao động vất vả, người dân chờ đợi ngày hội như chờ đón một niềm vui cộng đồng. Họ đến với hội trong tinh thần cộng cảm, hồ hởi, sảng khoái và hoàn toàn tự nguyện. Ngoài vui chơi giải trí, gặp gỡ bạn bè, mọi người về dự hội đều cảm thấy hình như mình còn được thêm một cái gì nữa. Đó chính là “may”, là “phước”, là “lộc thánh”, “lộc thần” hay tất cả gọi chung là “lộc hội”. Thứ quyền lợi vô hình ấy chỉ có trong hoạt động hội và ai cũng mong muốn tự mình nhận chứ không nhờ người khác nhận thay. Chính vì vậy mà hội rất đông, rất nhộn nhịp. Những ngày làng vào đám, nhịp sống thôn dã tưng bừng hẳn lên.

Hiện nay, về nội hàm lễ hội cơ bản có 2 quan điểm: Lễ hội phải là sinh hoạt văn hóa có cả 2 phần: “lễ” và “hội” không tách rời và quan điểm thành tố cho rằng “lễ hội” chỉ có “lễ” hoặc “hội”. Người theo quan điểm thứ nhất, tiêu biểu như tác giả Đinh Gia Khánh cho rằng “Danh từ hội lễ nên được dùng như một thuật ngữ văn hóa. Có thể sơ bộ xác định ý nghĩa của thuật ngữ này theo hai thành tố là hội và lễ. Hội là tập hợp đông người trong một sinh hoạt cộng đồng. Lễ là các nghi thức đặc thù gắn với sinh hoạt ấy. Cùng quan điểm này, GS. Trần Quốc Vượng viết: “Lễ hội gồm hai phần vừa tách rời vừa không tách rời nhau: lễ (nghi lễ cúng thần, thánh, phật, mẫu…) và hội (hội tụ của dân làng hay liên làng),… Theo quan điểm thứ hai, GS. Ngô Đức Thịnh cho rằng: “Lễ hội là một hiện tượng tổng thể, không phải là thực thể chia đôi (phần lễ và phần hội) một cách tách biệt… mà nó được hình thành trên cơ sở một cốt lõi nghi lễ tín ngưỡng nào đó…, rồi từ đó nảy sinh và tích hợp các hiện tượng sinh hoạt văn hóa phát sinh để tạo nên một tổng thể lễ hội; tác giả Nguyễn Chí Bền cho rằng, lâu nay như một thói quen cứ cho lễ hội có 2 phần: Lễ và hội, thực ra 2 yếu tố đó không tách rời,….

Trên thực tế, hai thành tố lễ hội có nội hàm và tính chất, tổ chức quy trình có khác nhau nhưng bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau và luôn hòa quyện, đan xen với nhau. Lễ là cái gốc, Hội là từ chỉ thành phần hổ trợ cho lễ (hay hội có thể coi là hình thức của lễ/ hội tụ dân làng đến dự lễ đã có yếu tố hội). Mặt khác, trong các trò diễn dân gian vốn là các trò diễn nghi lễ hoặc mang tính nghi lễ và ngược lại nhiều khi trong lễ lại bao hàm cả tính chất hội, như lễ đập trống của người Macoong, lễ chọi trâu ở Đồ Sơn,… Vì vậy, có nhiều trường hợp là một tổ hợp lễ hội có mối liên quan với nhau, không tách rời nhau, nhưng có trường hợp chỉ có lễ, không có hội hoặc ngược lại.

Với quan điểm đó, không nên xem xét phải có hai thành tố Lễ và Hội mới coi đó là lễ hội. Có thể ở loại hình lễ hội này phần lễ nổi trội, phần hội bị hòa vào trong lễ (hội tụ người dân đến dự lễ đã là hội), hoặc ngược lại phần hội nổi trội, nhưng trong hội có yếu tố lễ, như lễ hội đua thuyền, bơi trãi, đua ghe,… Vì vậy, ở đây nên thống nhất một cách tương đối: Lễ hội là sinh hoạt văn hoá, tín ngưỡng, tôn giáo, nghệ thuật truyền thống của cộng đồng, là thời điểm mạnh trong đời sống của cộng đồng, là cuộc sống được tái hiện dưới hình thức lễ tế và trò diễn… nhưng không tách rời nhau, không cần thiết phải tìm ra một cách tách bạch phải có yếu tố lễ và hội mới gọi là lễ hội.

- Lễ hội dân gian

Lễ hội dân gian hay còn gọi là lễ hội truyền thống, lễ hội cổ truyền (bao gồm cả lễ hội tại các di tích lịch sử - văn hóa, lễ hội dân gian) là hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng được tổ chức theo nghi lễ truyền thống, nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân).

 Nội hàm này là sự tập hợp giữa hai khái niệm: Lễ hội và truyền thống; nếu lễ hội được hiểu theo nghĩa Việt Nam là sinh hoạt văn hóa tinh thần của một cộng đồng dân cư nhằm thỏa mãn nhu cầu tôn kính thần linh bằng các lễ nghi, nghi thức tế lễ và những trò chơi có mối quan hệ với tín ngưỡng và lễ nghi đó, thì truyền thống là những tập tục, thói quen được hình thành từ lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ của con người được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác. Vì vậy, lễ hội dân gian là những sinh hoạt văn hóa được lưu truyền từ năm này sang năm khác, đời này sang đời khác, lặp đi lặp lại theo một chu kỳ nhất định. Lễ hội dân gian thường gắn với các với các địa danh, di tích lịch sử văn hóa, với các nhân vật như: thành hoàng làng; tổ làng nghề; những bậc anh hùng có công dựng nước và giữ nước; danh nhân và gắn với tín ngưỡng dân gian, 

- Lễ hội lịch sử

Lễ hội lịch sử là lễ hội gắn với các sự kiện, nhân vật lịch sử để tưởng nhớ công ơn của những người có công với làng với nước, diễn tả các sự kiện lịch sử…, như lễ hội Thành Hoàng làng, lễ hội Gióng, lễ hội đền Hai Bà Trưng, lễ hội giỗ tổ Hùng Vương, lễ hội Gò Đống Đa,… Trong lễ hội lịch sử có lễ hội lịch sử cách mạng. Đây là lễ hội liên quan đến các anh hùng dân tộc và các sự kiện lịch sử trên chặng đường hoạt động cách mạng từ khi Đảng thành lập đến nay, như lễ hội 2/9, 30/4, lễ hội được tổ chức tại các khu lưu niệm, nhà tưởng niệm các lãnh tụ cách mạng, các anh hùng dân tộc,….

- Lễ hội tôn giáo

 Lễ hội tôn giáo là lễ hội gắn với đời sống giáo lý lễ nghi của Phật giáo, Công giáo, Hồi giáo,…, như Lễ hội Giáng sinh, Phục sinh của Công giáo, Tin lành; Lễ hội Phật đản, Vu lan của Phật giáo; Đại lễ Hội Yến Diêu Trì Cung của Hội thánh Cao đài, lễ hội kết thúc mùa chay Ramadan của đạo Hồi,..…

- Lễ hội văn hóa

Lễ hội văn hóa là hoạt động giới thiệu, quảng bá giá trị văn hóa, thể thao tiêu biểu, đặc sắc; tiềm năng du lịch về đất nước, con người Việt Nam. Ví dụ như Lễ hội Áo dài, Hương xưa làng cổ, Thuận An Biển gọi, Sóng nước Tam Giang…

- Lễ hội ngành nghề

Lễ hội ngành nghề là hoạt động quảng bá về đặc trưng, thế mạnh của các ngành nghề; tôn vinh các tổ chức, nghệ nhân tiêu biểu có nhiều đóng góp trong việc giữ gìn và phát triển ngành nghề. Ví dụ như Lễ giỗ tổ nghề Kim hoàn, Lễ giỗ tổ nghề Đúc đồng, Lễ giỗ tổ nghề Mộc, Lễ giỗ tổ nghề Nề ngõa,…

- Lễ hội du nhập từ nước ngoài

Lễ hội du nhập từ nước ngoài là loại hình lễ hội được nước ta tiếp nhận từ bên ngoài, như  ngày lễ Tình nhân (Ngày 14/2), ngày Cá tháng Tư (ngày 1/4), ngày lễ Giáng Sinh (Ngày 25/12), ngày lễ Halloween (Ngày 31/10),…

Theo thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch hiện cả nước có khoảng 10 lễ hội du nhập từ nước ngoài, chiếm 0,13% trong tổng số các loại lễ hội.

- Lễ hội của cư dân ven biển

Lễ hội của cư dân ven biển, được hiểu là lễ hội của cộng đồng dân cư sống trên những dải đất liền ven biển bị ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của biển. Họ không chỉ có nghề cá mà ở đấy còn có sản xuất nông nghiệp, làm muối, và các nghề thủ công liên quan như: làm câu, đan lưới, đóng thuyền...

- Lễ hội của cư dân miền núi

Lễ hội của cư dân miền núi, được hiểu là lễ hội của cộng đồng dân cư sống trên những vùng rừng núi. Họ chủ yếu sống bằng sản xuất nương rẫy, săn bắt, đánh cá, hái lượm và các nghề thủ công truyền thống,… Ví dụ như Lễ đâm trâu, cúng rừng, A Da Koonh, A Riêu Ping, Lấp lỗ…

- Lễ hội của cư dân vùng đồng bằng trung du

Lễ hội của cư dân vùng đồng bằng trung du, được hiểu là lễ hội của cộng đồng dân cư sống trên vùng châu thổ đồng bằng và vùng trung du bán sơn địa. Họ chủ yếu sống bằng nông nghiệp ruộng nước, chăn nuôi, ngư nghiệp và các nghề thủ công truyền thống,…

- Biến đổi lễ hội

Biến đổi lễ hội là tập hợp 2 nội hàm: Biến đổi và lễ hội; nếu như biến đổi  là sự phản ánh một hiện tượng (quá trình) nào đó không lặp lại trạng thái trước đó; có nghĩa là làm khác đi, làm khác cách mà trước vẫn làm, thì lễ hội như đã đề cập ở trên là những sinh hoạt văn hóa dưới hình thức lễ tế và trò chơi. Vì vậy, biến đổi lễ hội được hiểu là quá trình thay đổi một phần hoặc toàn bộ (trong trường hợp lãng quên, xuất hiện loại hình lễ hội mới) các sinh hoạt của đời sống lễ hội truyền thống.

 
Các bài khác