- Lễ hội vùng miền núi
Lễ hội của đồng bào các dân tộc thiểu số ở Thừa Thiên Huế - cư dân có nền kinh tế nương rẫy lâu đời - thường được tổ chức vào khoảng thời gian nông nhàn, sau mùa rẫy, nhằm đáp ứng những nhu cầu sinh hoạt văn hóa tinh thần cũng như tạo ra những hình thức vui chơi nghĩ ngơi thư giãn.
Trong khi tiến hành lễ hội, nếu là lễ hội chung của làng bản, mỗi gia đình phải có trách nhiệm đóng góp: Gạo, nếp, lợn, gà, rượu,... Gia đình nào khó khăn sẽ đóng góp bằng công sức. Trong khoảng thời gian diễn ra lễ hội, luật tục quy định mỗi thành viên đều phải có nghĩa vụ gánh vác, không được trốn tránh hay làm việc riêng của gia đình. Trong những ngày diễn ra lễ hội, dân làng không ai được lên rẫy, đi rừng hay làm nhà, mọi người phải tập trung chuẩn bị cho lễ hội, khách đến chơi phải ở lại không được về. Nếu làng tổ chức lễ đâm trâu, các thành viên trong làng, nhất là trai tráng phải gánh vác nhiệm vụ tuyển trâu, dựng cột đâm trâu, trang trí cây nêu,... Những quy định trên phản ánh những chuẩn mực giá trị, những cách thức trong ứng xử của các thành viên trong làng, góp phần hình thành nên những nét đẹp trong lễ hội. Đặc biệt, những quy định mang tính nguyên tắc này đã thực sự đóng góp vai trò quan trọng trong việc củng cố tinh thần đoàn kết tương trợ, ổn định xã hội, tạo không khí lành mạnh trong sinh hoạt cộng đồng ở đồng bào các dân tộc thiểu số nơi đây.
Một trong những yếu tố góp phần cho sự tồn tại và phát triển của các loại hình lễ hội là tính tự giác của mọi thành viên trong làng bản rất cao. Điều này bắt nguồn từ quan niệm tín ngưỡng tâm linh. Việc cúng tế các vị thần linh là điều tất yếu phải làm, không được né tránh.
Có thể nói, đời sống kinh tế nương rẫy ở vùng rừng núi đã tạo dựng cho đồng bào các dân tộc thiểu số Thừa Thiên Huế một đời sống lễ hội rất phong phú, liên quan đến chu kỳ sản xuất nông nghiệp. Đó là những lễ hôi như lễ hội cúng cơm mới, lễ hội cúng rừng, lễ hội cúng Thần làng, lễ hội đâm trâu, lễ hội cầu mùa, lễ kết nghĩa anh em,...
- Lễ hội vùng đồng bằng
Vùng đồng bằng ở Thừa Thiên Huế mang đặc trưng địa hình eo hẹp chia cắt của miền Trung, nên hình thành không gian văn hóa đa dạng: Văn hóa đồng bằng, văn hóa đồi bãi, đầm phá,... Bởi vậy, cư dân nơi đây mặc dù chủ yếu sản xuất ruộng nước lâu đời, nhưng các ngành nghề khác rất được người dân chú trọng, như đánh bắt thủy sản trên sông, trên đầm phá, nghề thủ công truyền thống, ... Chính đặc điểm tự nhiên và đời sống kinh tế đó đã để lại dấu ấn sâu đậm trong văn hóa lễ hội của cư dân vùng đồng bằng ở Thừa Thiên Huế.
Vì vậy, văn hóa của cư dân đồng bằng Thừa Thiên Huế là văn hóa trên nền nông nghiệp kết hợp với văn hóa ngư nghiệp, thủ công nghiệp,... Đặc trưng văn hóa đó hình thành nên đời sống lễ hội gắn liền với các hoạt động sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp, thủ công nghiệp, như lễ hội cầu mưa, cầu mùa, lễ tế đền thờ khai canh, lễ tế tổ sư nghề nghiệp, lễ hội đua thuyền,... với những điệu hò, câu lý trong lao động sản xuất, hò khoan đối đáp của trai gái trong làng. Tất cả đã tạo nên những nét đẹp trong đời sống của người dân nông thôn quanh năm chân lấm tay bùn, cũng như đáp ứng những nhu cầu sinh hoạt văn hóa tinh thần, tạo ra những hình thức vui chơi nghỉ ngơi.
Trong lễ hội, nếu là lễ hội làng, mỗi gia đình phải có trách nhiệm đóng góp: Tiền hoặc hiện vật gạo, nếp,... Trong những ngày diễn ra lễ hội, mọi người phải tập trung chuẩn bị cho lễ hội, các bô lão chuẩn bị chương trình lễ hội, các thanh niên chuẩn bị dọn dẹp sạch sẽ, trang trí trang nghiêm không gian tổ chức lễ hội, phụ nữ chuẫn bị lễ vật cúng tế,... Những quy định trên phản ánh những cách thức trong ứng xử của các thành viên trong làng, góp phần hình thành nên những nét đẹp trong lễ hội. Đặc biệt, những quy định mang tính nguyên tắc này đã thực sự đóng góp vai trò quan trọng trong việc củng cố tinh thần đoàn kết tương trợ, ổn định xã hội, tạo không khí lành mạnh trong sinh hoạt cộng đồng làng xóm.
Có thể nói, đời sống làng quê với kinh tế ruộng nước, ngư nghiệp, thủ công nghiệp đã tạo dựng cho người dân vùng đồng bằng có một đời sống lễ hội rất phong phú, liên quan đến chu kỳ sản xuất nông nghiệp, đến nghề đánh bắt thủy sản, các nghề thủ công truyền thống. Đó là những lễ hội như lễ hội cúng Thần Thành Hoàng, lễ hội xuân thu nhị kỳ, lễ hội đua thuyền, lễ hội cầu mùa, cầu mưa, lễ cúng tổ sư nghề nghiệp,...
- Lễ hội vùng ven biển
Thừa Thiên Huế có đường bờ biển dài trên 120 km với một cộng đồng cư dân ven biển đông đảo; từ lâu đời cộng đồng dân cư đó đã đúc kết, tạo dựng cho mình một kho tàng văn hóa biển, chất biển rất đa dạng và phong phú. Họ là những người Việt từ vùng đồng bằng Bắc bộ dân mở cõi về phương Nam, mang theo mình hành trang của văn hóa tiểu nông, giao lưu và tiếp xúc với những cư dân Chămpa - dân cư đậm chất biển, giỏi kinh tế biển và khai thác biển, để rồi tiếp nhận và hình thành, phát triển nên những đặc trưng văn hóa mới mang đậm chất biển/ giá trị văn hóa biển. Những giá trị văn hóa đó được thể hiện qua ghe bàu, phương tiện đánh bắt hải sản, nghề thủ công gắn liền với biển, tín ngưỡng dân gian và đặc biệt là các loại hình lễ hội, như lễ hội cầu ngư, lễ hội cầu an, đua thuyền,…
Thừa Thiên Huế là vùng đất mở cõi của người Việt về phương Nam. Sau năm 1306, cùng cuộc hôn nhân của công chúa Huyền Trân với vua Chăm là Chế Mân, cư dân Việt đã đến vùng đất này để lập làng với người dân tiền trú nơi đây làm ăn sinh sống. Theo đó, quá trình hỗn dung Việt - Chăm diễn ra trên rất nhiều lĩnh vực, trong đó phải kể đến kinh nghiệm đi biển, đời sống tín ngưỡng tôn giáo, lễ hội, như ghe bầu, thờ Nữ thần Thiên Yana, thờ cá Ông, thờ Tứ vị Thánh nương, lễ hội ngư Ông, cầu an,… của cư dân Việt trên nền tảng hành trang văn hóa thuần nông mang theo đã tiếp biến văn hóa biển của cư dân Chăm; tất cả những điều đó đã hình thành nên những sắc màu văn hóa biển/ chất biển cho một cộng đồng dân cư Việt nơi vùng duyên hải tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng và Trung bộ nói chung.
Thêm vào đó,Thừa Thiên Huế có bờ biển dài tiếp nối với hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai kéo dài 68 km, rộng 1- 10 km, tổng diện tích mặt nước 216 km2, là đầm phá lớn nhất khu vực Đông Nam Á. Hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai bao gồm một chuỗi các đầm phá: Tam Giang - Đầm Sam - An Truyền - Hà Trung - Thuỷ Tú - Cầu Hai được nối với nhau và dài 68 km dọc vùng bờ biển dài 128 km thuộc 5 huyện, thị xã gồm: Phong Điền - Quảng Điền - Hương Trà - Phú Vang - Phú Lộc; nơi cư trú của cộng đồng cư dân mà sinh kế của họ phụ thuộc nhiều vào biển khơi. Trong quá trình sinh sống và lập nghiệp, cộng đồng dân cư đó đã đúc kết, tạo dựng cho mình một kho tàng văn hóa biển, đặc biệt là văn hóa phi vật thể, như hệ thống những tín ngưỡng và lễ hội liên quan đến biển, những thần tích, thần phả, những tri thức bản địa, văn hóa dân gian, lễ hội truyền thống,…
Khởi nguồn của lễ hội của cư dân vùng ven biển Thừa Thiên Huế là tín ngưỡng nông nghiệp ruộng nước và khai thác biển bằng cách “quai đê lấn biển”, “thau chua rửa mặn” của người Việt ở vùng Bắc bộ. Và rồi những lưu dân Việt trong buổi đầu đã thích nghi, hòa nhập với hoàn cảnh mới, môi trường mới. Tiêu biểu cho sự dung hợp, tiếp biến văn hóa này chính là tín ngưỡng thờ Mẫu và tín ngưỡng thờ cá Ông trong văn hóa người Việt nơi đây.
Lễ hội của cư dân ven biển Thừa Thiên Huế gắn với tín ngưỡng của cư dân ven biển. Đó là những bằng chứng vật chất và tinh thần xác thực về chủ quyền biển đảo và kinh nghiệm ứng xử với biển của các thế hệ người Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Thông qua lễ hội của cộng đồng cư dân nơi đây, các dạng thức văn hóa phi vật thể của di sản văn hóa biển đảo được lồng ghép làm cho lễ hội sinh động, như hội bài chòi, hát múa bả trạo, trò diễn bủa lưới, các trò chơi dân gian như đua thuyền, đua ghe trên phá,…
Rõ ràng, trong quá trình Nam tiến, người Việt phải rời xa vùng đồng bằng châu thổ phì nhiêu ở phía Bắc để dần thích ứng với vùng duyên hải đồng bằng nhỏ hẹp, bao bọc bởi những doi cát trắng và những vùng đầm phá ven biển. Môi trường đó buộc người Việt phải thay đổi mưu sinh, phải học cách ứng xử mới với biển cả và phải đối diện vị thế “hướng ra biển”. Vị thế đó, người Việt vùng ven biển Thừa Thiên Huế phải nhanh chóng thích ứng với môi trường mới và theo đó đời sống tinh thần của cư dân nơi đây đã hòa trộn, hỗn dung giữa văn hóa lúa nước và văn hóa biển. Sự hỗn dung đó thể hiển rõ nét trong đời sống lễ hội. Đó là các hình thức lễ hội liên quan đến thờ Thành hoàng, đua thuyền của vốn là truyền thống của cư dân nông nghiệp lúa nước và tín ngưỡng, lễ hội thờ ngư Ông, cầu an, thờ Tứ vị Thánh nương,… là đặc trưng của cư dân vùng biển. Nhưng tất cả lễ hội đó đã được cư dân ven biển Thừa Thiên Huế địa phương hóa để hình thành kho tàng văn hóa biển của cư dân nơi đây với những đặc trưng, như:
Thứ nhất, cư dân ven biển Thừa Thiên Huế đã sớm kết hợp hoạt động nông nghiệp với đánh bắt hải sản và dần nghề biển ngày càng chiếm ưu thế trong cuộc sống mưu sinh. Hầu hết mô hình của lễ hội nông nghiệp đã được dân nơi đây sử dụng thành lễ hội ngư nghiệp, như lễ hội cầu ngư bắt nguồn từ lễ hội cầu mùa, lễ hội cầu an từ lễ hội cầu mưa,…và các nghi thức lễ tế ở đình, lăng hay miếu đều giống như nghi thức tế đình của làng nông nghiệp ở Bắc Bộ… Và cả sự hiện diện của những tín ngưỡng đặc trưng của văn hóa nông nghiệp - đồng bằng, như thờ Thành Hoàng, thờ Tiền hiền, thờ Mẫu, thờ Cô hồn, thờ Thần Nông,... được cư dân vùng ven biển nơi đây tiếp biến trong đời sống tâm linh, để hình thành những lễ nghi, lễ hội mang sắc màu văn hóa biển.
Thứ hai, lễ hội của cư dân vùng ven biển Thừa Thiên Huế còn thể hiện ở dấu ấn văn hóa Chăm - cư dân “tiền trú” trên vùng đất này, như lễ hội gắn với tục thờ Bà/ Thánh Mẫu Thiên Y A Na ở các làng biển Thừa Thiên Huế xưa và nay. Vị phúc thần này của người Việt vốn được chuyển hoá từ thần mẹ xứ sở Pô Inư Nagar của người Chăm. Hay Bà Dàng Què được thờ ở làng Hải Nhuận cũng là Nữ thần Việt gốc Chăm. Ngoài ra, có một số nữ thần gốc Chăm khác như Thai Dương phu nhân, Kì Thạch Phu Nương thường xuyên được mời gọi trong các văn tế của cư dân ven biển Thừa Thiên Huế. Chính sự tương đồng ở tâm thức thờ Mẹ Xứ Sở - Mẹ Đất giữa người Việt và người Chăm đã khiến người Việt định cư ven biển Thừa Thiên Huế tự nguyện tiếp nhận tục thờ Mẫu của người Chăm và “Việt hóa” theo cách thức riêng của mình. Dấu ấn tín ngưỡng Chăm còn thể hiện qua nghi lễ dâng mâm, dâng bông lên Mẫu thần, được coi có thể là sự tiếp biến từ nghi lễ dâng hoa cho Nữ thần của người Chăm.
Thứ ba, sự đa sắc của nền văn hóa bản địa Thừa Thiên Huế thể hiện qua phong tục lễ hội truyền thống của cư dân ven biển là sự chồng xếp, đan xen của các lớp tư tưởng Nho, Phật, Đạo. Tư tưởng Nho giáo được thể hiện qua tất cả những quy tắc, chuẩn mực thống nhất, tức theo chữ lễ của Nho giáo. Cùng với Nho giáo, tinh thần từ bi của Phật giáo thấm nhuần trong tín ngưỡng cư dân ven biển Thừa Thiên Huế, biểu hiện ở việc phối thờ Phật Bà Quan Âm trong cơ sở thờ tự của cư dân ven biển; tinh thần từ bi, hỉ xả, cứu vớt chúng sinh, cô hồn không nơi nương tựa, chết bất đắc kỳ tử trong tín ngưỡng thờ Âm linh/ Cô bác; hoặc lễ cúng Cô hồn như một lễ thức không thể thiếu trong hệ thống nghi lễ chính như lễ Cầu ngư, lễ Cầu an, lễ quẩy cơm Cô bác, lễ vía Bà... Hay sự xuất hiện của thầy chùa trong một số nghi lễ của cư dân ven biển Thừa Thiên Huế như phụ trách nghi thức khai kinh thỉnh Phật cầu siêu trong lễ cúng cô hồn tại miếu Âm linh làng Hải Nhuận, miếu Âm linh làng Thai Dương Hạ,… những nghi tiết phóng sinh, phóng đăng, kèm theo vật phẩm cúng chay cho Âm linh/ Cô bác nhằm nguyện cầu cho các vong linh bất hạnh được siêu thoát và hình ảnh con thuyền chèo đưa linh Ông và Cô bác vượt qua biển nước về nơi cửa Phật trong hát bã trạo ở lễ Cầu ngư.
Thứ tư, sự thống nhất trong việc tổ chức lễ hội của cư dân ven biển Thừa Thiên Huế. Điều này được thể hiện ở việc hàng năm làng nào cũng tổ chức lễ Cầu ngư, lễ vía Bà vào mùa xuân, lễ Kỳ yên/ Cầu an vào mùa thu,… Các lễ hội thường được tổ chức theo một quy trình tương tự nhau và diễn ra ở đình làng, ở lăng, miếu thờ cá Ông,… Ngay cả lễ vật trong lễ hội dùng để dâng hiến thần linh cũng gần tương tự nhau, như hương đèn, hoa quả, cau trầu rượu, đồ vàng mã, bỏng nổ… Các trò chơi và sinh hoạt văn nghệ dân gian cũng gần giống nhau, như kéo co, đua ghe, lắc thúng, hát hò khoan đối đáp, hát bội, hát bã trạo,….
Như vậy, lễ hội truyền thống của cư dân ven biển Thừa Thiên Huế mang những đặc trưng cơ bản, như sự bắt nguồn từ lễ hội nông nghiệp và sự hòa trộn giữa lễ hội nông nghiệp và lễ hội biển, sự kết hợp giữa tín ngưỡng, lễ hội của cư dân tiền trú/ Chăm và tín ngưỡng, lễ hội của ngườ Việt, sự kết hợp tín ngưỡng và lễ hội dân gian với Phật giáo, Nho, sự thống nhất tương đối quy trình tổ chức lễ hội,… Những đặc trưng đó được thể hiện qua các lễ hội truyền thống, như lễ hội Cầu ngư gắn với tín ngưỡng thờ Thành Hoàng, các vị Tiền hiền và tín ngưỡng thờ ngư Ông, lễ hội Nghinh Ông gắn với tín ngưỡng thờ ngư Ông/ cá voi, lễ hội Cầu an gắn với tín ngưỡng thờ Thành Hoàng, các vị Tiền hiền, lễ hội thờ Mẫu/ Thánh Mẫu/ Nữ thần, lễ hội thờ Cô hồn với tín ngưỡng thờ Cô hồn, Cô bác,… Đây là dạng thức di sản văn hóa biển được lồng ghép sinh động giữa tín ngưỡng, lễ nghi và các trò diễn dân gian, như hội bài chòi, hát múa bả trạo, trò diễn bủa lưới, đua thuyền, đua ghe,… Tất cả những điều đó được thể hiện qu các lễ hội, như lễ hội Cầu ngư , lễ hội Nghênh Ông, lễ hội Cầu an, lễ hội thờ Mẫu/ Nữ thần, thờ Cô hồn, Cô bác,…